Chữ KINH của Phật-giáo, nói cho đủ là KHẾ KINH, nghĩa là Khế-lý và Khế-cơ. Chữ KHẾ nghĩa là hợp. Tất cả giáo-điển của Phật đều kiến lập trên nguyên-tắc ấy. "KHẾ-LÝ" là hợp với lý Chơn-thật của tất cả muôn sự muôn vật, là tánh tướng chơn-thật của muôn sự muôn vật, do trí huệ tuyệt đối của Phật tự mình chứng được rồi đem chỗ thân chứng ấy khai thị cho mọi loài sanh linh đều được chứng nhập. Ấy là Phật y theo nguyên-tắc khế-lý mà thuyết pháp vậy. KHẾ CƠ là hợp với cơ duyên của từng chủng loại, từng căn tánh, từng thời tiết nhơn-duyên. Đức Phật tìm phương tiện thích hợp với tất cả mọi loài mà thuyết pháp, chúng sanh đều được giác ngộ. Đủ hai nghĩa KHẾ LÝ và KHẾ CƠ ấy gọi là KHẾ KINH.
Trích: http://www.buddhahome.net/kinhsach/thapthiennghiepdao.htm
------ Trích: http://www.thuvienhoasen.org/nnkt101.htm
------ Trích: http://www.thuvienhoasen.org/hoangphap.htm
------ Trích: http://www.ykien.net/phatgiao01.html
------ Tác giả của Luận Phật Địa còn đi xa hơn, khi giải thích: "Khế là phù hợp với tinh thần giáo lý mầu nhiệm của các đức Phật trong ba thời, đồng thời còn đáp ứng một cách sát sao với sự lãnh hội của đương cơ tiếp nhận giáo pháp ấy." Theo đó, sự khế lý mà thiếu khế cơ hay khế cơ mà không khế lý thì chẳng được gọi là Kinh. Trích: http://www.trisieu.com/phatphap/tungkinh.htm
------ Chính Phật giáo cũng biến hóa ra nhiều hình thức tổ chức với mục đích, khế cơ khế lý (vận dụng sao cho vừa hợp với đạo lý, vừa hợp với trình độ của chúng sanh) vì đó là cái dụng tất yếu để phổ hóa chúng sanh. Nhưng khế cơ thì tồn tại mà khế lý thì mất dần, nên đôi khi cũng chỉ còn là nhãn hiệu. Trích: http://zencomp.com/greatwisdom/uni/u-thuthay/thu09.htm
------ Trích: http://www.quangminh.org/danhnhanpg/lienhoasac.html
------ Trích: http://www.buddhismtoday.com/viet/pgvn/vande/005-daophat5.htm
------ Ðể đạt được yêu cầu khế lý và khế cơ, người thầy giáo Phật học phải thấu triệt những vấn đề Phật học, nắm rành tâm lý học tăng và nhất là phải chủ động trong việc triển khai, giảng dạy thật linh động. Không phải biết cái gì thì dạy cái đó, mà chỉ dạy những gì cần thiết cho căn cơ đối tượng. Sự thích hợp với căn cơ đối tượng như vậy mới thật sự là giáo dục sư phạm Phật học. Trích: http://cusi.free.fr/pgtd/gdc0051.htm
------ 1. Đường canh (nghĩa đen): Sợi chỉ xuôi trong tấm vải. Nhờ sợi chỉ xuôi xâu kết các sợi chỉ ngang, để làm thành một tấm vải. "Kinh" cũng có nghĩa là sự tổng hợp ghi chép lại các lời nói của Phật hoặc thánh hiền. 2.Thường: Không thay đổi. Chơn lý của Phật không thay đổi; dù Phật quá khứ, hiện tại hay vị lai cũng đều nói chơn lý như vậy. 3. Hợp (Khế): Kinh của Phật "hợp với chơn lý của vũ trụ" và " hợp với căn cơ trình độ của chúng sanh". Cũng một bộ kinh, mà tuỳ theo trình độ của mỗi người, kẻ hiểu cao, người hiểu thấp. Tuy sự hiểu ngộ có cao thấp không đồng, mà cứ như lý tu hành thì đều được khỏi khổ luân hồi, không xót một người nào. Kinh Phật có những đặc điểm như thế, nên gọi là "Khế kinh" Trích: http://www.kimcang.com/phathoc/khoa12/phpt-12-01.asp
------ Trích: http://www.langmai.org/LaThuLangMai/LaThu26/UocHen.htm
------ Đó là những vấn đề sinh đạo đức (bioéthique) đặt ra bởi: ngừa thai và phá thai, ghép bộ phận, thụ thai trong ống nghiệm (fécondation in vitro), trợ tử (euthanasie), thay đổi di truyền, hay các bệnh xã hội mới như ma túy, nhiễm trùng HIV. Đa số những vấn đề này chưa tìm được giải pháp thích hợp, vì phức tạp và liên quan tới nhiều lãnh vực của cuộc sống, từ tâm lý, xã hội, đạo đức cho tới luật pháp, kinh tế, với bao nhiêu quan điểm khác nhau. Những vấn đề này dĩ nhiên quá mới mẻ đối với đạo Phật, cũng như đối với các tôn giáo khác. Nhưng cái khác của đạo Phật là không có Thánh kinh bắt các tín đồ phải đi theo một con đường cố định. Người Phật tử phải biết khế cơ, khế lý, tức là làm thích hợp đạo Phật vào mỗi hoàn cảnh đặc biệt. Chẳng hạn như vấn đề kiểm soát dân số, là một trong những vấn đề trọng đại nhất trong những thập niên tới, không những cho các nước chậm tiến mà còn cho cả toàn thế giới. Hiện nay trên trái đất có khoảng 5 tỷ rưỡi người, và con số này được ước lượng sẽ nhân lên gấp đôi trong khoảng hai ba chục năm tới. Mỗi năm có thêm 100 triệu người, hay mỗi ngày thêm 200 ngàn người nữa phải nuôi thêm. Ngoại trừ một số nhà lãnh đạo tôn giáo, tất cả những nhà khoa học, xã hội, kinh tế, chính trị có tinh thần trách nhiệm đều đồng ý với nhau rằng đó là một vấn đề then chốt cho tương lai nhân loại, bắt buộc phải dùng đến những biện pháp hạn chế sinh đẻ hữu hiệu. Trích: http://www.chuatrithu.com/Seite%20Phat%20Phap/phat%20hoc/dao%20phat%20va%20khoa%20hoc.html
------ Vấn đề tiêu chuẩn thiện ác là một vấn đề trọng đại của luân lý học. Nhưng luân lý bao giờ cũng được căn cứ trên một nền tảng nhận thức có hệ thống về vũ trụ, về thực tại và về con người. Nhận thức ta là một nhận thức duy vật chẳng hạn, thì luân lý ta là một luân lý duy vật. Nhận thức ta là một nhận thức duy thần thì luân lý ta sẽ là một luân lý duy thần. Và lẽ tất nhiên hễ nhận thức căn bản đổi thay thì quan niệm luân lý đổi thay. Luân lý không phải những bài học hay những khuôn mẫu đúc sẵn để cho mọi người khép theo. Luân lý phải là phương châm và pháp thức hành động của con người hợp với hoàn cảnh, tâm lý và hạnh phúc chân thật con người. Lịch sử đã chứng tỏ bao nhiêu cuộc đổi thay của sinh hoạt xã hội của nhận thức trí tuệ và của luân lý con người. Luân lý phải chuyển biến để thích ứng với hoàn cảnh hiện tại của xã hội, của con người. Quan niệm xưa "quân sử thần tử, thần bất tử bất trung" chẳng hạn, đã được tôn sùng như một chân lý và cũng đã đóng góp không ít cho nền trị an của những đế quốc nông nghiệp rộng rãi. Nhưng ngày nay xã hội đã đổi khác, những nhận thức của con người cũng đổi khác cho nên, các quan niệm luân lý như thế đã trở thành không hợp thời và lại trái chống với hạnh phúc con người nữa. Cho nên, là một Phật tử chân chính không có nghĩa là phải bắt chước y hệt khuôn mẫu hành động của một người Phật tử sống ở một xã hội khác biệt cách đây hai ba ngàn năm, dù người Phật tử ấy là người Phật tử chân chính nhất. Điều cốt yếu tìm cho ra những nguyên lý này đã làm căn bản cho hành động của người Phật tử ấy, và xây dựng sinh hoạt ý chí tình cảm hoạt động của mình trên những nguyên lý căn bản kia. Theo đúng nguyên tắc trên, ta thấy luân lý (tức là phương pháp) của ta phải : 1.- Phù hợp với những nguyên lý căn bản của đạo Phật đã làm nền tảng cho sinh hoạt muôn mầu muôn sắc của hai-ngàn-năm-trăm-năm giáo sử. 2.- Phù hợp với xã hội ta, lịch sử ta và những điều kiện tâm lý sinh lý của cá nhân ta. Điều thứ nhất là khế lý, điều thứ hai là khế cơ. Hễ cái gì mà khế lý và khế cơ thì được gọi là Phật Pháp. Như vậy trong khi thực hành Phật Pháp, ta có ý thức rõ rệt và linh động về những phương pháp và mục đích của công cuộc thực hiện ấy, chứ ta không bắt chước một cách vô ý thức khuôn khổ hành động của một kẻ khác mà điều kiện xã hội, lịch sử, điều kiện tâm lý và sinh lý chẳng giống gì của ta. Trích: http://www.vnbc.org/VNBC/Book/nhathanh/daophat.asp
------ Giảng: Tu-đa-la (Sutra) là tiếng Phạn, Trung Quốc dịch là Kinh, kinh là "trên thì khế lý Chư Phật, dưới thì khế hợp căn cơ chúng sanh." Vì khế lý khế cơ, cho nên gọi là khế kinh. Toàn bộ kinh điển cùng với văn tự Ðại thừa Tiểu thừa, mười hai phần kinh (tức trường hàng, trùng tụng, thọ ký, cô khởi, vô vấn tự thuyết, nhân duyên, tỷ dụ, bổn sự, bổn sanh, phương quảng, vị tằng hữu và luận nghị) đều vì người mới có những kinh điển này, nếu không có nhân loại thì sẽ không dùng đến kinh điển. Vì tánh trí huệ mới có thể kiến lập tất cả các pháp. Tất cả những việc phiền não trên thế gian, đều do người mà sanh. Nếu không có người, việc phiền não gì cũng không có. Vì có những việc phiền não phát sanh, cho nên mới sanh ra những pháp dạy quý vị cách diệt trừ phiền não. Người có tám vạn bốn ngàn trần lao, vì thế Phật thuyết tám vạn bốn ngàn pháp môn để đối trị, cho nên nói: "Phật thuyết nhất thiết pháp, vị độ nhất thiết nhân. Nhược vô nhất thiết nhân, hà dụng nhất thiết pháp?" Tất cả các kinh sách đều vì người mà nói. Nếu không có người, tất cả kinh sách cũng không dùng đến. Vì trong loài người, có người ngu có người trí. Người ngu si giống như trẻ con; người có trí huệ giống như người lớn, trẻ con có những việc không hiểu cần phải hỏi người lớn, người lớn bèn giải thích cho nghe. Lúc trẻ con ngộ giải tâm khai, hiểu rõ mọi việc này, thì cũng giống như người có trí huệ. Trích: http://drbavn.users.ixpres.com/KPBDLGP2.htm
------ Trích: http://chimviet.free.fr/tacpham2/kimdung/kd_tlbb05.htm
------ Câu hỏi vừa đặt ra cho người Phật tử có lẽ không thừa. Bởi vì Phật tử nào cũng biết câu "Phật pháp không lìa thế gian pháp" và ý thức rằng giáo lý của Ðức Phật không là những gì trừu tượng đứng ra ngoài cuộc đời. Do đó, sự tìm hiểu hoàn cảnh và những sự việc hiện thực, cũng như những xu thế phát triển của chúng, với chủ đích làm sống động mối tương quan giữa Ðạo Phật và đời sống thực tại, là một tất yếu. Qua đó, người Phật tử vừa thực hiện được 1 trong 4 lời nguyện lớn : "Pháp môn vô lượng thệ nguyện học", vừa nhận thức rõ hơn thế nào là những hành động hợp với "khế lý" và "khế cơ" trong sự xây dựng một nếp sống vì sự giải thoát của mình và vì sự an lành của chúng sinh. Trích: http://chimviet.free.fr/18/msi0050.htm
------ Trích: http://www.buddhanet.net/budsas/uni/u-dpcuocdoi/dpcd02.htm
------ |