Bánh chưngBách khoa toàn thư mở WikipediaBánh chưng là một loại bánh truyền thống của dân tộc Việt nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trời xứ sở. Nguyên liệu làm bánh bao gồm gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn, lá dong và bánh thường được làm vào các dịp Tết cổ truyền của dân tộc Việt, cũng như ngày giổ tổ Hùng Vương) (mùng 10 tháng 3 âm lịch). Sự tíchLà loại bánh duy nhất có lịch sử lâu đời trong ẩm thực truyền thống Việt Nam còn được sử sách nhắc lại, bánh chưng có vị trí đặc biệt trong tâm thức của cộng đồng người Việt và nguồn gốc của nó có thể truy nguyên về truyền thuyết liên quan đến hoàng tử Lang Liêu vào đời vua Hùng thứ 6. Sự tích trên muốn nhắc nhở con cháu về truyền thống của dân tộc; là lời giải thích ý nghĩa cũng như nguồn cội của của Bánh Chưng, Bánh Giầy trong văn hóa, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của cây lúa và thiên nhiên trong nền văn hoá lúa nước. Quan niệm truyền thống![]()
Một gia đình đang gói bánh chưng cho ngày Tết. Theo quan niệm phổ biến hiện nay, cùng với bánh giầy, bánh chưng tượng trưng cho quan niệm về vũ trụ của người Việt xưa. Bánh có màu xanh lá cây, hình vuông, được coi là đặc trưng cho đất trong tín ngưỡng của người Việt cổ và các dân tộc khác trong khu vực châu Á. Tuy nhiên, theo Giáo sư Trần Quốc Vượng, bánh chưng nguyên thủy có hình tròn và dài, giống như bánh tét, đồng thời bánh chưng và bánh giầy tượng trưng cho dương vật và âm hộ trong tín ngưỡng phồn thực Việt Nam[1]. Bánh tét, thay thế vị trí của bánh chưng vào các dịp Tết trong cộng đồng người Việt ở miền nam Việt Nam, theo Trần Quốc Vượng là dạng nguyên thủy của bánh chưng. Gói và nấu bánh chưng, ngồi canh nồi bánh chưng trên bếp lửa đã trở thành một tập quán, văn hóa sống trong các gia đình người Việt mỗi dịp tết đến xuân về. Nguyên liệu làm bánh
Chuẩn bị
Khâu chuẩn bị nguyên liệu, vật liệu cho bánh chưng đặc biệt quan trọng để bánh có thể bảo quản được lâu dài không ôi thiu hay bị mốc. Thịt ướp dùng nước mắm, vo nếp không sạch, đãi đậu không kỹ hay rửa lá còn bẩn, không lau khô lá trước khi gói đều có thể khiến thành phẩm chóng hỏng. Quy trình thực hiệnGói bánhThông thường có hai cách gói bánh chưng: gói bằng tay không hoặc gói theo khuôn hình vuông khoảng 20 cm x 20 cm x 7cm sẵn có. Khuôn thường làm bằng gỗ. Cách gói tay không thông thường như sau:
Với cách gói có khuôn các giai đoạn cũng được tiến hành như trên. Tuy nhiên, người ta cắt tỉa bớt lá dong cho gọn (vừa kích thước khuôn) và đặt trước các lớp lá xen kẽ nhau vào trong khuôn (3 hoặc 4 lá, nếu gói 4 lá bánh sẽ vuông đẹp hơn. Khi đó thường thì 2 lá xanh quay ra ngoài xếp tại 2 góc đối xứng nhau, và 2 lá xanh quay vào trong để tạo màu cho bánh). Sau khi đã cho nhân vào trong, các lớp lá lần lượt được gấp lại và sau đó được buộc lạt. Cách gói bánh có khuôn thì bánh đều nhau hơn và chặt hơn do được vỗ đều gạo, nén chặt, còn gói không khuôn thì bánh được gói nhanh hơn do đỡ mất công đo cắt lá theo kích thước khuôn. Bánh được gói không khuôn thì mặt trên lá được quay ra ngoài, còn với bánh có khuôn thì mặt dưới lá lại được quay ra ngoài. Luộc bánhLấy xoong to, dầy với dung tích trên 100 lít tùy theo số lượng bánh đã được gói. Rải cuộng lá dong thừa xuống dưới kín đáy nhằm mục đích tránh cho bánh bị cháy. Xếp lần lượt từng lớp bánh lên đến đầy xoong và xen kẽ các cuộng lá thừa cho kín nồi. Đổ ngập nước nồi và đậy vung đun. Người nấu bánh thường canh giờ tính từ thời điểm nước sôi trong nồi và duy trì nước sôi liên tục trong 10 đến 12 giờ. Trong quá trình đun, thỉnh thoảng bổ sung thêm nước nóng để đảm bảo nước luôn ngập bánh (người thực hiện thường đặt sẵn ấm nước bên cạnh bếp đun bánh để tận dụng nhiệt lượng). Những chiếc bánh ở trên có thể được lật giở để giúp bánh chín đều hơn, tránh tình trạng bị lại gạo sau này. Trong lúc đun, có thể lấy bánh ra, rửa qua trong nước lạnh, thay một lượt nước mới khác, bánh sẽ rền, ngon hơn. Ép bánh và bảo quảnSau khi luộc xong, vớt bánh ra rửa sạch lá trong nước lạnh cho hết nhựa, để ráo. Xếp bánh thành nhiều lớp, dùng vật nặng đè lên để ép bánh cho ra nước, chắc mịn (tục gọi là để cho rền bánh) và phẳng đều trong vài giờ. Hoàn tất công đoạn ép bánh, bánh được treo lên chỗ khô ráo trong nhà để bảo quản. Bánh thường được treo ở nơi thoáng mát, không bụi bặm, ẩm thấp để tránh bị mốc và ôi thiu, tùy thời tiết có thể để được hàng tháng trời không hỏng. Nhiều vùng ngày xưa còn đưa bánh xuống ngâm dưới ao hoặc giếng nước để bảo quản, lá bánh với nhựa của gạo khi nấu là lớp màng ngăn nước lọt vào làm hỏng bánh. Cách ngâm nước bảo quản bánh chưng tương truyền gắn với sự tích vua Quang Trung tiến quân ra Bắc Hà vào dịp tết nguyên đán năm Kỷ Dậu (1789), nhân dân bỏ bánh chưng xuống ao, ngừng ăn tết nhằm hoàn tất đại cuộc phá quân Thanh và ăn tết muộn sau đó. Tuy nhiên, hiện cũng ít nơi còn sử dụng phương thức bảo quản này. Sử dụngTrên bàn thờ ngày tết không thể thiếu bánh chưng và bánh thường được bày theo cặp. Nhiều người cầu kỳ còn bóc bỏ lớp lá bên ngoài của bánh và gói lại bằng lá tươi mới, sau đó buộc lạt màu đỏ trước khi đặt lên bàn thờ. Trên mâm cỗ ngày Tết, bánh chưng vuông thường được cắt chéo bằng chính lạt gói bánh đó, bánh chưng dài thường cắt lát ngang, gọi là "đồng bánh", để ăn cùng với dưa hành, nước mắm rắc chút bột tiêu. Ra sau tết, bánh có thể bị lại gạo, bị cứng, khi đó người ta thường đem rán vàng trong chảo mỡ và ăn kèm với dưa góp. Bánh chưng dàiMột số vùng, trong đó có Phú Thọ - vùng trung du đất Tổ của các vua Hùng, không thịnh hành gói bánh chưng hình vuông mà gói dạng tròn dài, gọi là "bánh chưng dài", hay "bánh tày". Bánh tày còn là loại bánh Tết ở Kinh Bắc và tại nhiều vùng dân tộc thiểu số miền Bắc Việt Nam. (Xem bài bánh tét) Giáo sư Trần Quốc Vượng cho rằng bánh chưng cổ xưa không phải là hình vuông. Theo ông: "Bánh chưng vuông tượng đất, bánh dày tròn tượng trời là một triết lý rất Trung Hoa nhưng triết lý ấy thực ra còn chưa có ở đời Hán. Vậy, làm gì có chuyện "bánh chưng vuông tượng trời" ra đời ở Việt Nam vào thời Hùng Vương? Ở Cổ Loa, thủ đô của nước Âu Lạc, nơi chỉ cách trung tâm Hà Nội có 17 km mà bây giờ vẫn có rất ít bánh chưng vuông. Họ thường gói bánh chưng tròn, còn gọi là bánh tét hay là bánh tày".[6] Bánh chưng dài thường được gói với rất ít đỗ, và rất ít hoặc không có thịt, mục đích để dành ăn lâu dài vào những ngày sau tết, xắt thành từng lát bánh rán vàng giòn hơn và ăn ngon hơn. Bánh chưng dài có thể dùng lá chuối, lá chít thay cho lá dong, với 2 đến 4 lá xếp theo chiều dọc, rải gạo, đỗ theo chiều của lá và quấn bằng lạt giang đã được nối bằng phương thức đặc biệt để bó chặt chiếc bánh. Cũng thường thấy một kiểu bánh chưng khác, bánh chưng ngọt, không sử dụng thịt trong nhân bánh, đường trắng được trộn đều vào gạo và đỗ. Một số vùng khi thực hiện bánh chưng ngọt còn trộn gạo với gấc, cho màu đỏ đẹp. Khi gói bánh chưng ngọt thường người ta không quay mặt xanh của lá dong vào trong. Kỷ lục về bánh chưngChiếc bánh chưng làm tại làng nghề bánh chưng truyền thống Ước Lễ, huyện Thanh Oai, Hà Nội nhân dịp Tết Nguyên đán Nhâm Ngọ (2002) đã được Sách Kỷ lục Guinness và tổ chức Ripley's Believe It or Not![7] công nhận là chiếc bánh chưng lớn nhất thế giới[8]. Bánh nặng 1,4 tấn do 50 nghệ nhân làng Ước Lễ làm ra từ 330 kg gạo nếp, 100 kg đậu xanh, 100 kg thịt lợn, gói bằng 1.500 chiếc lá dong và nấu trong một nồi thép cao trên 2 m trong hơn 72 giờ.[9][10] Bánh chưng trong thơ vănTrong câu đối phổ biến về sản vật ngày Tết, người ta thấy sự có mặt của bánh chưng như một giá trị vật chất và tinh thần không thể thiếu trong dân tộc Việt Nam:
|
Bánh chưngFrom Wikipedia, the free encyclopedia
Bánh chưng (Chưng cake) is a traditional Vietnamese cake which is made from glutinous rice, mung bean, pork and other ingredients. Its origin is told by the legend of Lang Liêu, a prince of the sixth Hùng Vương, who became Hùng Vương's successor thank to his creation of bánh chưng and bánh giày, which symbolized respectively the Earth and the Sky. Considered an essential element of the family altar on the occasion of Tết, the making and eating bánh chưng during this time is a well-preserved tradition of Vietnamese people. Beside the Tết holiday, bánh chưng is also tasted all year round as a delicacy of Vietnamese cuisine and one of the national dishes of Vietnam besides nem rán and phở. Legend and symbolAccording to the book Lĩnh Nam chích quái (Extraordinary stories of Lĩnh Nam) published in 1695, the creation of bánh chưng was credited to Lang Liêu, a prince of the sixth Hùng Vương. It was said that after the victory against the army of Shang Dynasty, in choosing a successor among his sons, Hùng Vương decided to carry out a competition in which each prince brought a delicacy respresenting the sincerity for the ancestors on the occasion of the Tết, whoever could introduce the most delicious dish for the altar would become the next ruler of the country. While other princes tried to find the rare and delicious foods from forest and sea, the eighteenth prince Lang Liêu, who was the poorest son of Hùng Vương, could not afford those luxury dishes and had to content with the everyday ingredients such as rice or pork. Finally, he created one cake in the square form of earth called bánh chưng and one in the round form of sky called bánh giày from these simple ingredients. In tasting the dishes offered by his son, Hùng Vương found bánh chưng and bánh giày not only delicious but also a fine respresentation of the respect for ancestors. Therefore he decided to cede the throne to Lang Liêu and bánh chưng, bánh giày became traditional foods during the Tết.[1][2][3] Considered an indispensable dish of the Tết, bánh chưng is placed in the family altars in order to honour the ancestors and pray them to support the family in the new year.[4] Wrapped in a green square package, bánh chưng symbolizes the Earth,[5] the variant ingredients of bánh chưng which comes from all the products of nature also emphasize the meaning of bánh chưng with Vietnamese people. While the pair of bánh chưng, symbol of earth, and bánh giày, symbol of sky, is generally considered a respresentation of the whole cosmos, some propose another dualistic symbol in which bánh chưng represent the male and bánh giày represents the female,[1] others reckon that bánh giày is the symbol of Yang or the father while bánh chưng is the symbol of Yin or the mother.[6] Because of its long history and enduring popularity, especially in the Tết holiday, bánh chưng is considered a national dish of Vietnam besides nem rán and phở.[7] Ingredients and presentationThe required ingredients of bánh chưng are glutinous rice, mung bean, fatty pork and black pepper, salt, sometimes green onion, and nước mắm for spices.[8] In the wrapping stage, one needs lá dong, strings split from giang, one type of bamboo which has long node, and sometimes a square mould in wood so that bánh chưng can be wrapped in a better shape, lá dong, which is popular only in the Southern Asia, can be substituted by banana leaves or even lá bàng.[9] Lá dong and giang strings have to be washed carefully in order to preserve the taste of the cake, giang strings may be soaked in salt water or steamed so that they can become flexible enough for wrapping. People often choose high quality rice and bean for making bánh chưng, they are soaked in water for 2 hours in case of mung bean and 12 to 14 hours in case of glutinous rice. The fat and lean pork is prefered for bánh chưng because its fatty flavour well associates with the glutinous rice and mung bean. After being sliced in big parts, pork is mixed with pepper, onion and salt or nước mắm. People in Bắc Ninh once added sugar in this mixture of spices.[6] The cake is wrapped in the following order. Firstly the giang strings and two lá dong leaves are placed as the square base for the bánh trưng. After that, glutinous rice is stuffed in lá dong, followed by mung bean, pork and finally another layer of rice so that bean and pork can be respectively in the center of the cake. All placed ingredients are carefully wrapped in lá dong and bound by giang strings in the square form. In order to get a near perfect square-shaped cake, the maker can use a mould of square form as the base for the wrapping. To keep the cake from mold or being spoiled, bánh chưng should be carefully wrapped as tight as possible. The prepared cakes are tightly arranged in large pot, the pot is filled with fresh water and boiled for hours until they are done from the inside stuffing to outside. After cooling and unwrapping, the rice skin of bánh chưng turns green because rice has absorbed the colour of lá dong.[8] To achieve this appetizing colour, some manufacturers even place batteries with bánh chưng in the boiling pot.[10] One bánh chưng is often divided in 8 parts, usually by using the very giang string which bound the wrap of the cake.[11] As a cake formed from several ingredients, the taste of bánh chưng varies from part to part with different flavours of glutinous rice, pork, bean and even the wrapping lá dong. Bánh chưng is often served with pickled onions or vegetables, giò lụa and nước mắm. After unwrapping, bánh chưng can stay good for several days[11] while a wrapped one can be kept for two weeks.[12] Bánh chưng has the water activity value aw of about 0.95 and its pH is approximately 6.4.[13] Illustration
History and traditionBánh chưng is always considered an essential element of a traditional Tết, which is desribed by a popular couplet:[5]
Traditionally, bánh chưng requires a preparation of many ingredients, each Vietnamese family which can afford such a preparation begins to make the cake from the 27th or 28th day of the December (tháng Chạp) in Lunar calendar. In making bánh chưng, all members of the family gather with different tasks, from washing the lá dong, mixing the pork with spices, preparing the mung bean and most important wrapping all ingredients in square form and boilling the cakes. Bánh chưng needs to be carefully boiled for ten to twelve hours during which the adults and children sit together around the boiling cauldron.[5] In the countryside, to ensure that bánh chưng is available for every families even the poor ones, a fund called họ bánh chưng is jointly set up and about one month before the Tết, the accumulated capital and benefit are divided between members of the fund so that they can have enough money to prepare bánh chưng.[1] Nowadays, the tradition of self-made bánh chưng gradually declines in Vietnam when the size of a typical family is smaller and people do not have enough time for the preparation and making of bánh chưng, instead they go to the bánh chưng shop or order cakes in advance from families which specialize in making them. Therefore bánh chưng still appears in each family during the Tết but they are not a family product any more.[5] With the shift of bánh chưng making from family to specialized manufacturers, some craft villages became famous for their reputation in making bánh chưng such as Tranh Khúc village or Duyên Hà village both in Thanh Trì, Hanoi.[14][15] Each year, on the occasion of the Death anniversary of the Hung Kings, a competition of making bánh chưng and bánh giày is often organized in Hùng Temple, Phú Thọ. Participants from eight different regions including Lào Cai, Hanoi and Cần Thơ are provided with 5kg of glutinous rice, bean, 1kg of pork so that they can make 10 bánh chưng in 10 minutes, the product of the winning team will be present in the official altar of the festival.[16] In 2005, bánh chưng makers in Saigon offered Hùng Temple a pair of giant bánh chưng and bánh giày, the size of the bánh chưng was 1.8m x 1.8m x 0.7m and 2 tonnes in weight after cooking, it was made in Saigon and subsequently transfered to Phú Thọ.[17] VariationsWhile being normally eaten warm or at room temperature, bánh chưng may be also fried up and served in form of crisp pancake called bánh chưng rán (fried bánh chưng).[18] The writer Vũ Bằng in his book Thương nhớ mười hai (Longing of the 12 months) mentioned bánh chưng rán as a delicious dish during the cold February of Hanoi.[19] In some regions, instead of bánh chưng, people makes bánh tét which is a cylindrical cake with almost the same ingredients as bánh chưng.[5][18] A similar cake as bánh tét is made in some regions in the North but with the name bánh tày or bánh chưng dài (long bánh chưng).[20][21] Bánh tày is often made with small quantity of mung bean and little or no pork so that it can be preserved for a longer period, bánh tày can be cut in slices and fried like bánh chưng rán. San Diu people has another variation of the long bánh chưng with a hump in the middle of the cake, hence it is called bánh chưng "gù" ("humped" bánh chưng), besides lá dong, bánh chưng "gù" is wrapped by an additional type of leaf named lá chít.[22] There are also variations of bánh chưng for vegetarians and Buddhists which do not contain pork such as bánh chưng chay (vegetarian chưng cake) or bánh chưng ngọt (sweeten chưng cake), instead of pork, these cakes are stuffed with molasses or brown sugar.[1] For these variations, sometimes they mix glutinous rice with gac so that the cake can have a red skin which is more appetizing. In the countryside, bánh chưng chay was once made by the poor families who could not afford the pork for stuffing, they replaced pork by cardamom, black pepper and cooked mung bean, this type of bánh chưng was eaten with molasses.[23] |
Ghi chú: PQB đã sửa để loại đi một số từ dính dáng tới CS.