Văn Tư Tu

Khi nghe người khác khen bạn hay, bạn giỏi, tâm bạn khởi vui mừng hớn hở? Và khi nghe những lời tán thán khen ngợi đó, bạn có bao giờ lắng tịnh tâm tư quán sát lời khen đó là chân thật hay chỉ là lời khen trang sức? Hoặc nếu nghe người khác phê bình chê bai, hủy báng bạn, bạn khởi tâm tức giận, buồn phiền? Hay vẫn tâm bình khí hòa định tĩnh quán xét lời chê bai đó là hợp lý cảnh tỉnh bạn, hoặc giả nó chỉ là lời thị phi!

Nghe người khác nói chuyện hoặc tự mình định làm công việc gì, bạn có thói quen suy nghĩ chín chắn rồi mới thực hành? Dẫu rằng sự suy nghĩ của con người phản ứng nhạy bén, nhanh chóng; nhưng nếu không thông qua định tĩnh tư duy quán xét sẽ không tránh khỏi sự sơ hở sai sót, nhầm lỗi.

Có người cố chấp theo cái suy nghĩ của riêng mình, không chịu nghe theo lời hay ý thiện của người khác, do vậy, khi nghe người khác thảo luận góp ý, anh ta lấy làm lơ là, không chú tâm lắng nghe, cũng chẳng dụng tâm suy nghĩ. Do vậy, công việc làm rất khó đạt được kết quả hoàn mỹ.

Đức Phật trực đối hạng người có tập tánh thưa thớt đó, từ bi khuyên nhắc: Trong sinh hoạt thường ngày, đối mặt với bất luận sự tình gì chúng ta đều cần nên vận dụng VĂN TƯ TU mới có thể tiến nhập giải quyết sự tình cực chí thông suốt tốt đẹp, và có trải qua VĂN TƯ TU mới có thể đạt được mục tiêu chính xác, an toàn. Bởi vì, VĂN là từ chỗ nghe, chỗ thấy mà sanh trưởng trí huệ. TƯ là từ chỗ tư duy, khảo nghiệm suy xét mà tăng trưởng trí huệ. TU là từ chỗ dụng công tu tập thực hành những điều thấy nghe, thông qua tư duy khảo nghiệm, quán sát mà thành tựu trí huệ.

Các nhà Nho học thường nói: “Học mà không tư duy là học vẹt”. Chỉ tư duy mà không thông qua sự sàng lọc của sự học hiểu thực nghiệm thì sự tư duy đó rất dễ rơi vào tà ngụy. Vô cùng nguy hiểm. Điều đó đã thuyết minh rõ về tầm quan trọng của tam huệ VĂN TƯ TU.

VĂN là lắng nghe người khác nói chuyện, thuyết giảng. Bạn có chuyên tâm nhất ý lắng nghe chăng? Giả như nghe có chỗ ngôn từ, ý nghĩa thiên lệch, bạn có biết chuyển hướng cách nghe không?

Bậc Bồ tát tu hai mươi lăm pháp viên thông; nhĩ căn viên thông là một trong những pháp tu quan trọng. Do vậy, Phật pháp rất chú trọng về pháp môn huân tập “đa văn”. Tai nghe so với mắt nhìn có phần quan trọng không kém. Vật ở quá xa tầm mắt hoặc sát cận tầm mắt thì không thể nhìn thấy được minh bạch, nhưng âm thanh ở xa hoặc ở sát cận tầm tai vẫn có thể nghe được rõ ràng. Những chuyện của quá khứ, mặc dù là không nhìn thấy được nguyên thể hình dạng của chúng như thế nào, nhưng chúng ta vẫn có thể hiểu biết được khi nghe người khác nói, kể truyền đạt lại. Người ở cách vách tường nói chuyện, mặc dù không nhìn thấy được người, nhưng vẫn có thể nghe được tiếng nói của đối phương.

Thật ra, nghe là một nghệ thuật linh hoạt không thể thiếu được trong cuộc sống, và đòi hỏi chúng ta không ngừng trau dồi học tập kỹ năng thiện xảo “lắng nghe” chơn thực, chính xác. Cái mà gọi là lắng nghe tiếng vỗ tay của một bàn tay, nếu bạn lắng nghe được âm thanh từ vô thanh kia thì ngay phút giây đó bạn đã thành tựu được pháp “nghe sanh trưởng trí tuệ” (Văn sở thành tuệ) rồi!

Điều mà gọi là “Tư sở thành tuệ”, nghĩa là từ chỗ tư duy quán sát những điều thấy nghe mà tăng trưởng trí tuệ; nó đòi hỏi phải có chánh tư duy, thiện tư duy, thanh tịnh tư duy và tư duy sâu sắc, kỹ lưỡng chín chắn; Ý nói rằng phàm làm một sự việc gì đòi hỏi phải có sự suy đi nghĩ lại, khảo tới sát lui ba lượt, sau đó mới thực hành. Trên thế gian người có tiền của được xem là người có nhiều phước báo đáng quý; nhưng người có tư tưởng tư duy trong sáng, chánh trực không những đáng quý mà còn được tôn kính.

Trên thế gian các nhà triết học giải thích ra được nhiều vấn đề của vũ trụ đều là nương vào tâm não tư duy quán sát khảo nghiệm mà khai sáng vấn đề. Tất cả các nhà khoa học kỹ thuật trên thế giới phát minh ra bao nhiêu những khoa kỹ văn minh cũng đều thông qua tư tưởng tư duy, thực nghiệm mà thành tựu. Và biết bao nhà văn học, văn từ phong phú, ý tứ trong sáng, có đủ lực cảm hóa lòng nhân cũng đều là kết quả từ sự tư duy mà thành. Cũng vậy, trong cuộc sống hằng ngày, nếu chúng ta thường biết huân tập tư duy, phản tỉnh, quán sát nội tâm nhận chân được thật tướng của các pháp thì sự tư duy đó rất tự nhiên tăng trưởng thành trí tuệ.

“Tu sở thành tuệ” là gì? Tu, là thực tiễn hành trì theo giáo pháp của Đức Phật chỉ dạy, hoặc hành trì những điều đã học hỏi thấy nghe được từ các bậc thánh nhân, thầy tổ v..v… mà vận dụng tư duy, phản tỉnh sửa đổi ba nghiệp thân, khẩu, ý mình từ những điểm hư xấu, bất thiện, bi quan bế tắc trở thành trong sáng thiện mỹ, lạc quan. Tu có nhiều hình thức như khổ tu, lạc tu, chơn tu, nội tu, cộng tu, tự tu… Sự tu tập được dụ như y phục rách rồi, cần phải vá lại mới có thể mặc được. Phòng xá hư hại cần phải tu sửa lại mới có thể ở được. Cũng vậy, thân tâm con người một khi đã có vết dơ nhớp hoặc có lỗ khuyết hỏng hư hại, đương nhiên càng nên cần phải sửa đổi tu bổ mới đảm bảo được phẩm chất hữu dụng của đời người, đồng thời từ chỗ lập nguyện tu dưỡng sẽ tạo nên động lực vi diệu thăng hoa cuộc sống đến chỗ cực chí mục tiêu.

Đường dài vạn dặm, chỉ cần bạn dụng công khởi chân cất bước thì lo gì không đến đích? Sự nghiệp ngàn muôn, chỉ cần bạn dũng cảm đảm nhận tiến hành thực tiễn thì lo gì sự nghiệp không thành công? Tu hành sẽ thành tựu được nhân phẩm và phong cách trang nghiêm; tu tâm sẽ thành tựu được đạo nghiệp thậm thâm vi diệu; chỉ cần chúng ta kiên tâm quyết chí thực hành, tất nhiên sẽ có quả chứng. Đó là thành quả diệu dụng của “Tu sở thành tuệ”.

Từ cái diệu dụng thực tiễn của VĂN TƯ TU đối với cuộc sống con người, Phật giáo khuyến cáo chúng ta không thể thiếu và không thể xem nhẹ thực tiễn hành trì VĂN TƯ TU, bởi vì có VĂN TƯ TU mới có thể tiến sâu vào cực chí địa linh chánh quả.

Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui
Chọn những bông hoa và những nụ cười.

Nguồn: VĂN TƯ TU, Thích Nữ Huệ Mỹ (sưu tập)
http://giadinhphattu.vn/news/Tai-lieu/Nghi-Thuc-Tung-Niem-1126/#sthash.NEoMycbc.dpuf


Quá trình văn tư tu

Cái nhìn về đạo chân chính bắt đầu từ văn, tư và tu, gọi là tam học. Văn là học hỏi. Những đệ tử của Bụt gọi là thanh văn (sravaka), là người nghe giáo lý để tu học. Khi nghe giảng dạy về giáo lý, khi đọc Kinh, khi pháp đàm, ta thực tập văn học. Vặn học tức là học nghe. Học nghe, ta phải có thái độ cởi mở, phải thao thức muốn hiểu, muốn thực hành, như thế mới gọi là văn học. Còn nếu nghe để đàm luận, nghe chỉ để phê phán và chỉ trích, nghe để chứa chấp kiến thức rồi khoe khoang, đó chưa phải là văn học.

Tư là suy gẫm, tư duy, quán chiếu những điều mình nghe. Ta nghe một điều gì, dù điều đó từ một vị đạo sư nổi tiếng nói ra ta cũng phải tư, tức là phải thẩm xét giá trị ứng dụng của những điều đó. Ta không mù quáng nghe theo vô điều kiện. Sau khi nghe rồi, phải tư. Trong khi đang nghe, không tư, nghe là nghe mà thôi. Nghe xong rồi lúc đó mới quán chiếu, mới suy tư (reflecting). Tư là đem kinh nghiệm, đem trí tuệ, đem khổ đau của mình ra để mà xét nghiệm. Xem thử những điều mình nghe có thể trả lời được những nỗi đau khổ, những thắc mắc, những thao thức của đời mình hay không, như thế gọi là tư học.

Nghe giống như gieo hạt giống vào đất. Thực tập là tưới tẩm cho hạt giống có thể nẩy mầm. Thực tập là tu, giai đoạn thứ ba gọi là tu học. Nếu không đem ra thực tập thì việc nghe không có lợi ích nào cả. Trong quá trình văn, tư, tu về đạo ta sẽ thấy được bản chất của đạo là làm bằng khổ, ta thấy khổ ở trong đạo. đạo Bụt phát sinh là vì cuộc đời khổ đau, cho nên cuộc đời khổ đau là chất liệu làm ra đạo. Sự tỉnh thức, sự thương yêu phát sinh từ khổ đau. đạo và khổ tương tức. Trong quá trình văn, tư và tu chúng ta thấy khổ và tập ở trong đạo. Chúng ta biết rằng tập, những nguyên do làm ra khổ, nếu chuyển hóa được, thì khổ sẽ vắng mặt. Ba yếu tố khổ, tập và diệt có thể nhìn thấy trong đạo. Tâm Kinh nói: ‘‘Không đạoì, có nghĩa là đạo không có ở ngoài khổ, tập và diệt. Không có cái này thì không có cái kia. Năm chữ ‘‘không khổ, tập, diệt, đạoì thuộc về chân đế, đó là sự thật vô lậu. Ngay trong quá trình tiếp xúc với mặt tục đế, ta đã thấy được bản chất của đạo, và chuyển hóa được tập. Nếu thấy cho rõ thì ta ngừng lại ngay, tự nhiên đi tới diệt. Chuyển hóa tập, thành tựu diệt sẽ làm vơi khổ, khiến cho cái khổ biến đi.

Nhờ quá trình văn, tư và tu mà lời nói và hành động của ta mỗi lúc mỗi tương ứng. Ví dụ một người giảng giải rất hay về năm giới, nhưng vẫn chưa thực tập năm giới một cách vững chãi. Nhờ quá trình văn, tư và tu nên sự thực tập năm giới càng ngày càng vững; và lời nói của ta đi đôi với hành động, ngôn hành tương ưng. Nói theo Vương Dương Minh là tri hành hợp nhất.

Nguồn: Bài 06 Quá trình văn tư tu, http://langmai.org/tang-kinh-cac/vien-sach/giang-kinh/trai-tim-cua-but/bai-06-qua-trinh-van-tu-tu


Ba môn học trí tuệ còn gọi là Tam Tuệ Học, bao gồm: Văn tuệ, Tư tuệ và Tu tuệ.

Ba phương pháp này giúp người học Phật nhận định rõ ràng đường hướng trong quá trình tu tập để đưa đến sự giác ngộ.

Thành phần của Tam Tuệ Học

Văn tuệ: trí tuệ phát sinh từ sự biết lắng nghe giáo pháp.

Tư tuệ: trí tuệ phát triển lớn dần từ sự tư duy, thẩm định vấn đề đã nghe.

Tu tuệ: trí tuệ tròn sáng do biết lắng nghe, tư duy và thực hành.

Phương pháp tu tập theo Tam Tuệ Học

Văn tuệ: lắng nghe chánh pháp, đọc tụng kinh sách, xem băng đĩa Phật giáo,… để khai thông trí tuệ.

Tư tuệ: tư duy, suy xét và nghiên cứu những lời dạy của Phật để trí tuệ tăng trưởng, hiểu rõ chân lý.

Tu tuệ: sau khi lắng nghe, suy nghĩ, biết được con đường chân chánh, chúng ta áp dụng vào cuộc sống để chuyển hóa nỗi khổ niềm đau.

Mối tương quan giữa Văn - Tư - Tu

Văn, Tư, Tu được xem như ba mắt xích, gắn liền và hỗ tương cho nhau trong quá trình tu tập.

Nếu chỉ nghe mà không suy nghĩ thì không thể phân biệt đúng sai để tìm ra chân lý.

Biết chân lý nhưng không thực hành thì không thể đạt đến an lạc, giải thoát.

Chỉ thực hành mà không học hỏi, thiếu suy nghĩ, thì việc làm sẽ mù quáng.

Kết Luận

Văn, Tư, Tu là ba phương pháp mà người học Phật không thể không hành trì đầy đủ, giống như kiềng ba chân không thể thiếu một chân.

Cổ Đức dạy: “Tu mà không học là tu mù, Học mà không tu như đãy đựng sách.”

Nguồn: Bài 5: Ba Môn Học Trí Tuệ, http://www.hkt.vn/giao-duc/giao-trinh/4653-BAI-5-BA-MON-HOC-TRI-TUE.html

Go back |  Return to Home Page